Ngày 19/2/2025, Quốc hội khóa XV, kỳ họp bất thường lần thứ 9 đã chính thức thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi) với 458/459 phiếu tán thành. Luật có 7 chương, 50 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/3/2025. So với quy định của Luật cũ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi) có nhiều điểm mới nổi bật.

Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương
Bố cục của Luật năm 2025 có nhiều thay đổi so với Luật 2015. Cụ thể: Chương I: Quy định chung (gồm 07 điều, giảm 08 điều so với Luật 2015). Chương I có 2 nội dung đáng chú ý như sau: (1) Về mô hình tổ chức chính quyền địa phương; Luật 2025 tiếp tục duy trì mô hình tổ chức chính quyền địa phương như quy định của Luật 2015 và các luật, nghị quyết về tổ chức chính quyền đô thị. (2) Luật 2025 quy định nguyên tắc hoạt động của HĐND là làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số (theo Luật 2015, HĐND làm việc theo chế độ hội nghị). UBND hoạt động theo chế độ tập thể UBND kết hợp với trách nhiệm của chủ tịch UBND. Chương II: Tổ chức ĐVHC và thành lập, giải thể, nhập, chia ĐVHC, điều chỉnh địa giới và đổi tên ĐVHC (gồm 03 điều, giảm 09 điều so với Luật năm 2015): Đổi tên chương và thứ tự chương so với Luật 2015 để bảo đảm phù hợp với Hiến pháp năm 2013 (Điều 110 của Hiến pháp năm 2013 quy định về tổ chức ĐVHC trước Điều 111 về tổ chức chính quyền địa phương tại các ĐVHC). Chương IIII: Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương các cấp (gồm 04 Điều): Thay vì được quy định tại Chương I về Quy định chung như Luật 2015, nội dung này được quy định thành 1 chương riêng, là cơ sở để các luật chuyên ngành khi quy định nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương và các cơ quan nhà nước ở địa phương trong các ngành, lĩnh vực cụ thể phải bảo đảm phù hợp.
Rõ phân quyền, phân cấp, uỷ quyền
Về phân quyền, Luật 2025 quy định rõ việc phân quyền phải bằng luật, nghị quyết của Quốc hội (theo Luật 2015 việc phân quyền chỉ quy định trong luật). Chính quyền địa phương tự chủ trong việc ra quyết định, tổ chức thi hành và tự chịu trách nhiệm trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền; được phân cấp, ủy quyền thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền theo quy định của Luật này, trừ trường hợp luật, nghị quyết của Quốc hội quy định không được phân cấp, ủy quyền. Cơ quan nhà nước cấp trên, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm kiểm tra, thanh tra, giám sát về tính hợp hiến, hợp pháp trong việc chính quyền địa phương các cấp thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền.
Về phân cấp: So với Luật 2015, Luật 2025 quy định rõ chủ thể được phân cấp là UBND cấp tỉnh, cấp huyện; chủ thể nhận phân cấp cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác, đơn vị sự nghị công lập thuộc UBND cùng cấp; UBND, Chủ tịch UBND cấp dưới. Luật 2025 quy định rõ trách nhiệm của cơ quan phân cấp trong việc bảo đảm các điều kiện để thực hiện việc phân cấp; Cơ quan nhận phân cấp chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả thực hiện nhiệm vụ được phân cấp nếu cơ quan phân cấp đã bảo đảm các điều kiện theo quy định. Quy định này nhằm tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan trong phạm vi thẩm quyền của mình rà soát và đẩy mạnh việc thực hiện phân cấp thẩm quyền kèm theo các điều kiện bảo đảm thực hiện.
Về uỷ quyền: Luật 2025 mở rộng và quy định rõ chủ thể được uỷ quyền và chủ thể nhận uỷ quyền. So với Luật 2015, Luật 2025 đã quy định rõ việc UBND ủy quyền cho Chủ tịch UBND, cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc UBND cấp mình hoặc UBND, Chủ tịch UBND cấp dưới; Chủ tịch UBND ủy quyền cho cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc UBND cùng cấp hoặc Chủ tịch UBND cấp dưới; cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện ủy quyền cho UBND, Chủ tịch UBND, cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc UBND cấp dưới). Luật 2025 quy định rõ yêu cầu của việc uỷ quyền (uỷ quyền phải bằng văn bản hành chính của cơ quan uỷ quyền; văn bản phải quy định rõ nội dung, phạm vi, thời hạn, cách thức và các điều kiện cần thiết để uỷ quyền), quy định một số nhiệm vụ không được uỷ quyền (nhiệm vụ ban hành văn bản quy phạm pháp luật và nhiệm vụ mà nếu uỷ quyền sẽ làm thay đổi thủ tục hành chính quy định trong văn bản quy phạm pháp luật); Quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan trong việc uỷ quyền và thực hiện nhiệm vụ uỷ quyền; Quy định việc sử dụng con dấu và hình thức văn bản khi thực hiện nhiệm vụ uỷ quyền (nhằm phân biệt giữa uỷ quyền thẩm quyền và uỷ quyền ký văn bản).
Nhiều quy định mới về Hội đồng nhân dân
Các nội dung tăng thẩm quyền cho Thường trực HĐND gồm: Trong thời gian HĐND không họp, Thường trực HĐND được quyết định biện pháp giải quyết các công việc đột xuất, khẩn cấp trong phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn; điều chỉnh dự toán, phân bổ tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách hằng năm và báo cáo HĐND tại kỳ họp gần nhất (Khoản 14, Điều 29); Quyết định số lượng thành viên các Ban của HĐND cấp mình. Phê chuẩn danh sách và việc cho thôi làm Phó Trưởng Ban, Ủy viên của Ban của HĐND trong số đại biểu HĐND theo đề nghị của Trưởng Ban của HĐND (khoản 7, Điều 29). Theo Luật 2015, việc quyết định số lượng thành viên các Ban của HĐND và cho thôi làm Phó Trưởng Ban của Ban của HĐND thuộc thẩm quyền của HĐND. Trong thời gian HĐND không họp, Thường trực HĐND xem xét, chấp thuận việc cho thôi làm nhiệm vụ đại biểu HĐND trong các trường hợp: Đại biểu HĐND không còn công tác tại cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp ở đơn vị hành chính mà mình đang là đại biểu và không cư trú tại đơn vị hành chính mà mình đang là đại biểu; Theo đề nghị của đại biểu HĐND vì lý do sức khỏe hoặc vì lý do khác (Khoản 3, Điều 36)
Luật sửa đổi, bổ sung các quy định về hoạt động của HĐND để phù hợp với yêu cầu thực tiễn: HĐND bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng Ban của HĐND trong số đại biểu HĐND theo danh sách đề cử chức vụ từng người của Thường trực HĐND (Luật 2015 quy định việc bầu Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng Ban của HĐND theo giới thiệu của Chủ tịch HĐND). Tại kỳ họp thứ nhất, HĐND bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng Ban của HĐND trong số các đại biểu HĐND theo đề nghị của Thường trực HĐND khóa trước (Luật 2015 quy định việc bầu theo giới thiệu của Chủ tọa Kỳ họp). Về hình thức quyết định các vấn đề của HĐND (Khoản 1 Điều 33): HĐND quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình bằng hình thức biểu quyết. Việc biểu quyết có thể bằng hình thức trực tiếp, trực tuyến hoặc bằng hình thức phù hợp khác theo Quy chế làm việc của HĐND ((Luật 2015 quy định HĐND quyết định các vấn đề tại phiên họp toàn thể bằng hình thức biểu quyết công khai hoặc bỏ phiếu kín)
Quy định rõ Chủ tịch HĐND quyết định tạm đình chỉ công tác đối với Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng Ban, Phó Trưởng Ban của HĐND cùng cấp, Chủ tịch HĐND cấp dưới trực tiếp trong các trường hợp theo quy định của cấp có thẩm quyền (điểm d, khoản 1, Điều 30). Thường trực HĐND quyết định tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu HĐND khi đại biểu bị khởi tố hoặc trong quá trình xem xét, xử lý hành vi vi phạm của đại biểu HĐND, có cơ sở xác định phải xử lý kỷ luật từ cảnh cáo trở lên đối với đại biểu là cán bộ, công chức, viên chức hoặc xử lý bằng pháp luật hình sự mà cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đã có văn bản đề nghị tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu (khoản 1 Điều 36). Luật 2015 chỉ quy định khi đại biểu HĐND bị khởi tố bị can thì Thường trực HĐND quyết định tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu đó. Bổ sung quy định về thẩm quyền điều hành hoạt động của HĐND khi khuyết Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND hoặc Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND bị xử lý kỷ luật (khoản 4 Điều 30).
Bỏ uỷ viên UBND phụ trách Quân sự, Công an
Cơ bản kế thừa các quy định về cơ cấu tổ chức của UBND theo quy định của Luật hiện hành và giao Chính phủ quy định khung số lượng Phó Chủ tịch UBND, Ủy viên UBND các cấp, số lượng cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện (Luật 2015 quy định Ủy viên UBND là người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Ủy viên phụ trách quân sự, Ủy viên phụ trách công an). Luật 2025 quy định Chủ tịch UBND không nhất thiết là đại biểu HĐND (khoản 2 Điều 34)
Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/3/2025./.